Khó khăn trong học tập

Các rối loạn học tập là điều kiện gây ra sự khác biệt giữa hiệu suất học tập tiềm năng và trên thực tế được dự đoán vởi khả năng trí tuệ của trẻ. Các rối loạn học tập liên quan đến các khiếm khuyết hoặc khó khăn trong việc tập trung hoặc chú ý, phát triển ngôn ngữ, hoặc xử lý thông tin thị giác và nghe. Chẩn đoán bao gồm đánh giá về nhận thức, giáo dục, lời nói và ngôn ngữ, y tế, và tâm lý. Điều trị chủ yếu bao gồm quản lý giáo dục và đôi khi cần điều trị y tế, hành vi và tâm lý.

Rối loạn học tập được coi là một loại rối loạn phát triển thần kinh. Các rối loạn phát triển thần kinh là các tình trạng thần kinh xuất hiện sớm trong thời thơ ấu, điển hình là trước khi đi học. Những rối loạn này ảnh hưởng đến sự phát triển của các hoạt động cá nhân, xã hội, học tập, và/hoặc nghề nghiệp và thường liên quan đến những khó khăn trong việc thu nhận, duy trì, hoặc áp dụng các kỹ năng hoặc thông tin. Các rối loạn này bao gồm mất chứng năng trong sự chú ý, trí nhớ, nhận thức, ngôn ngữ, giải quyết vấn đề hoặc tương tác xã hội. Các rối loạn phát triển thần kinh thường gặp khác bao gồm: tăng động giảm chú ý, tự kỷ, và thiểu năng trí tuệ.

Các rối loạn học tập cụ thể ảnh hưởng đến khả năng:

Hiểu hoặc sử dụng ngôn ngữ nói

Hiểu hoặc sử dụng ngôn ngữ viết

Hiểu và sử dụng số và lý do sử dụng các khái niệm toán học

Phối hợp các vận động

Tập trung chú ý vào một nhiệm vụ

Do đó, các rối loạn này bao gồm các vấn đề về đọc, tính toán, phát âm, ngữ pháp, hiểu hoặc sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ không lời ( xem Bảng: Các rối loạn học tập cụ thể thường gặp). Hầu hết các rối loạn học tập là phức tạp hoặc hỗn hợp, với sự thiếu hụt trong nhiều hệ thống.

Mặc dù tổng số trẻ em ở Hoa Kỳ bị rối loạn học tập là không rõ, trong năm học 2017-2018, 7 triệu học sinh (hoặc 14% của tất cả học sinh công lập) từ 3 đến 21 tuổi ở Hoa Kỳ đã nhận được các dịch vụ giáo dục đặc biệt theo Đạo luật Giáo dục Cá nhân Khuyết tật (IDEA). Trong số học sinh được nhận các dịch vụ giáo dục đặc biệt, 34% (hoặc khoảng 5% tổng số học sinh) có khuyết tật học tập cụ thể (1). Trẻ nam bị rối loạn học tập nhiều hơn nữ 5:1. Mặc dù các chẩn đoán chính thức có thể giúp một số trẻ em nhận được sự giúp đỡ, đặc trưng cho các khả năng khác nhau là các rối loạn có nguy cơ gây bệnh cho trẻ như là một bệnh lý nào đó. Điều quan trọng là xác định những người cần sự giúp đỡ khác nhau hoặc bổ sung cho việc học tập và cung cấp quyền truy cập vào sự hỗ trợ mà họ cần.

Rối loạn học tập có thể là bẩm sinh hoặc mắc phải.. Không có nguyên nhân đơn lẻ nào được xác định, nhưng thiếu sót thần kinh được cho là có liên quan đến việc có hay không các biểu hiện thần kinh khác. Thường kèm theo các ảnh hưởng về di truyền. Các nguyên nhân có thể khác bao gồm:

Mẹ mắc bệnh hoặc sử dụng thuốc độc trong thời kỳ có thai

Các biến chứng trong thời kỳ mang thai hoặc khi sinh (ví dụ nhiễm khuẩn âm đạo, nhiễm khuẩn huyết, chuyển dạ kéo dài, đẻ quá nhanh)

Các vấn đề về sơ sinh (ví dụ đẻ non, cân nặng thấp khi sinh, bệnh vàng da nặng, ngạt chu sinh,thai già tháng, suy hô hấp)

Các yếu tố tiềm ẩn sau sinh bao gồm việc tiếp xúc với các độc tố môi trường (ví dụ như chì), nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương, ung thư và điều trị của ung thư, chấn thương, suy dinh dưỡng, và chế độ ăn kiêng hoặc thiếu thốn trong xã hội.

Contact Us

error: